Cách niệm hơi thở (Anapanasati)

Luận về quán hơi thở

Tìm hiểu về các tầng Thiền

Tứ Niệm Xứ – 4 nền tảng của chánh niệm

Hỏi-Đáp về lợi ích của Định (samatha)

Thiền định và Thiền quán

Những Điều Cần Biết Trong Hơi Thở

Luận về quán hơi thở

LUẬN VỀ QUÁN HƠI THỞ

[Tóm lược]

1. [162] Khi bất cứ ai tu tập định bằng cách quán hơi thở [1] với 16 cứ điểm, có hơn 200 loại trí khởi lên trong vị ấy:

I.        tám loại trí về chướng ngại và tám loại trí về trợ giúp,

II.     mười tám loại trí về bất toàn,

III.   mười ba loại trí về giữ trong sạch,

IV.  ba mươi hai loại trí trong người thực hành quán niệm,

V.     hai mươi bốn loại trí nhờ định,

VI.  bẩy mươi hai loại trí nhờ quán thực tánh,

VII.tám loại trí về nhàm chán,

VIII.tám loại trí biết về cái gì tương thuận với nhàm chán,

IX.  tám loại trí như là làm lắng dịu nhàm chán,

X.     hai mươi mốt loại trí về hạnh phúc giải thoát.

[ Phần I ]

2. Tám loại trí về chướng ngại và tám loại trí về trợ giúp là gì?

3. Ham muốn ái dục là chướng ngại cho định, xuất ly là trợ giúp cho định.

Sân hận là chướng ngại…, không sân hận là trợ giúp…

Dã dượi buồn ngủ là chướng ngại…, nghĩ đến ánh sáng là trợ giúp…

Dao động là chướng ngại…, không tán loạn là trợ giúp…

Nghi là chướng ngại…, tìm hiểu rõ hiện tượng là trợ giúp…

Vô minh là chướng ngại…, trí là trợ giúp…

Tẻ nhạt là chướng ngại…, hoan hỉ là trợ giúp…

Cũng vậy, tất cả các trạng thái bất thiện là chướng ngại cho định, tất cả các trạng thái thiện là trợ giúp cho định.

Đây là tám loại trí về chướng ngại và tám loại trí về trợ giúp.

4. Khi tâm được điều hướng, điều hướng khéo, qua 16 khía cạnh này, tâm củng cố các nhất điểm và được lọc sạch chướng ngại. [163]

Các nhất điểm này là gì?

Xuất ly là nhất điểm, không sân hận là nhất điểm, nghĩ đến ánh sáng là nhất điểm, không tán loạn là nhất điểm, tìm hiểu rõ hiện tượng là nhất điểm, trí là nhất điểm, hoan hỉ là nhất điểm, các trạng thái thiện là nhất điểm.

5. Những chướng ngại này là gì?

Ham muốn ái dục là chướng ngại cho định, sân hận là chướng ngại, dã dượi buồn ngủ là chướng ngại, dao động là chướng ngại, nghi là chướng ngại, vô minh là chướng ngại, tẻ nhạt là chướng ngại, các trạng thái bất thiện là chướng ngại.

Chướng ngại : chướng ngại theo nghĩa nào?

Chướng ngại theo nghĩa án ngữ các lối thoát.

Các lối thoát ấy là gì?

Xuất ly là lối thoát cho các bậc thánh nhân, các bậc thánh nhân được thoát ra nhờ xuất ly: ước muốn tình dục án ngữ lối thoát đó, và bởi vì con người bị ước muốn tình dục tạo khó khăn nên không hiểu được lối thoát của thánh nhân dưới hình thức xuất ly.

Không sân hận…, sân hận…

Nghĩ đến ánh sáng…, dã dượi buồn ngủ…

Không tán loạn…, dao động…

Tìm hiểu rõ hiện tượng…, nghi…

Trí…, vô minh…

Hoan hỉ…, tẻ nhạt…

Cũng thế, tất cả các trạng thái thiện là lối thoát cho các bậc thánh nhân, các bậc thánh nhân được thoát ra nhờ tất cả các trạng thái thiện: tất cả các trạng thái bất thiện án ngữ lối thoát đó, và bởi vì con người bị tất cả các trạng thái bất thiện tạo khó khăn nên không hiểu được lối thoát của thánh nhân dưới hình thức trạng thái thiện.

[ Phần II ]

6. Khi người có tâm được lọc sạch khỏi những chướng ngại này [164], người ấy tu tập định bằng quán hơi thở qua mười sáu cứ điểm, mười tám bất toàn sau đây khởi lên trong vị ấy theo từng chập ngắn ngủi.[2]

Mười tám bất toàn nào khởi lên?

(1) Khi vị ấy chú tâm theo dõi chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối hơi thở vào,[3] tâm của vị ấy bị phân tán phía trong, và như thế là một ngăn trở cho định.

(2) Khi vị ấy chú tâm theo dõi chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối hơi thở ra, tâm của vị ấy bị phân tán phía ngoài, và như thế là một ngăn trở cho định.

(3) Những hành vi khao khát như hy vọng, tham luyến, hơi thở vào là một ngăn trở cho định.

(4) Những hành vi khao khát như hy vọng, tham luyến, hơi thở ra là một ngăn trở cho định.

(5) Khi mệt vì thở vào (hơi quá dài hay quá ngắn), bất kỳ sự mong ngóng hơi thở ra nào đều là một ngăn trở cho định.

(6) Khi mệt vì thở ra (hơi quá dài hay quá ngắn), bất kỳ sự mong ngóng hơi thở vào nào đều là một ngăn trở cho định.[4]

7.

Chú tâm theo dõi hơi thở vào
Và cũng theo dõi hơi thở ra
Bên trong phân tâm sẽ xảy đến
Bên ngoài để phân tâm cuốn hút
Mong ngóng thở ra ở người
Mệt mỏi nhiều vì thở vào,
Mong ngóng thở vào ở người
Mệt mỏi nhiều vì thở ra;
Sáu nhược điểm này của định
Dựa trên quán hơi thở
Sẽ ngăn tâm thoát ra khỏi
Phân tâm do chúng tạo nên;
Và ai không biết về giải thoát
Ắt phải tin lời người khác.

8.  (7) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến dấu hiệu,[5] tâm của người ấy có thể bị hơi thở vào lay động, đây là một trở ngại cho định.

(8) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến hơi thở vào, tâm của người ấy có thể bị dấu hiệu ấy lay động, đây là một trở ngại cho định.

(9) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến dấu hiệu, tâm của người ấy có thể bị hơi thở ra lay động, đây là một trở ngại cho định.

(10) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến hơi thở ra, tâm của người ấy có thể bị dấu hiệu lay động, đây là một ngăn trở cho định.

(11) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến hơi thở vào, tâm của người ấy có thể bị hơi thở ra lay động, đây là một ngăn trở cho định.

(12) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến hơi thở ra, tâm của người ấy có thể bị hơi thở vào lay động, đây là một ngăn trở cho định.

9. [165]

Hướng tâm chú ý đến dấu hiệu trong khi tâm
Vẫn bị hơi thở vào phân tán;
Hướng tâm chú ý đến hơi thở vào trong khi tâm
Vẫn bị dấu hiệu phân tán;
Hướng tâm chú ý đến dấu hiệu trong khi tâm
Bị hơi thở ra phân tán;
Hướng tâm chú ý đến hơi thở ra trong khi tâm
Bị dấu hiệu phân tán;
Hướng tâm chú ý đến hơi thở vào trong khi tâm
Vẫn bị hơi thở ra phân tán;
Hướng tâm chú ý đến hơi thở ra trong khi tâm
Bị hơi thở vào phân tán;
Sáu nhược điểm này của định
Dựa trên quán hơi thở
Sẽ ngăn tâm thoát ra khỏi
Phân tán do chúng tạo nên;
Và ai không biết về giải thoát
Ắt phải tin lời người khác.

10. (13) Tâm buông theo [hơi thở] quá khứ bị [6] xao lãng thắng thế là một ngăn trở cho định.

(14) Tâm lay động vì ngóng chờ [hơi thở] tương lai là một ngăn trở cho định.

(15) Tâm giải đãi bị lười biếng thắng thế là một ngăn trở cho định.

(16) Nỗ lực quá sức, tâm bị dao động thắng thế là một ngăn trở cho định.

(17) Khi bị lôi cuốn, tâm bị tham thắng thế là một ngăn trở cho định.

(18) Khi chán ghét, tâm bị sân hận thắng thế là một ngăn trở cho định.

11.

Tâm nào: săn đuổi quá khứ,
Mong ngóng tương lai, lười biếng,
Nỗ lực quá sức hay bị lôi cuốn,
Hay chán ghét, tâm ấy không được định
Sáu nhược điểm này của định
Dựa trên quán hơi thở
Là như thế khi chúng vấy bẩn tư tưởng người đó
Vị ấy không biết được Tâm Tăng Thượng.

12. (1) Khi theo dõi chặng đầu, chặng giữa chặng cuối hơi thở vào, tâm hành giả bị phân tán bên trong, cả thân lẫn tâm vị ấy không yên, bị xáo trộn và dao động. (2) Khi theo dõi chặng đầu, chặng giữa chặng cuối hơi thở ra, tâm hành giả bị xao lãng bên ngoài, cả thân lẫn tâm vị ấy không yên, bị xáo trộn và dao động. (3) Hơi thở vào với hành vi khao khát như hy vọng, tham luyến, cả thân lẫn tâm vị ấy không yên, bị xáo trộn và dao động. (4) Hơi thở ra với hành vi khao khát như hy vọng, tham luyến, cả thân… (5) [166] Vì trong vị ấy mong ngóng hơi thở ra khi mệt vì hơi thở vào [quá dài hay quá ngắn] cả thân lẫn… (6) Vì trong vị ấy mong ngóng hơi thở vào khi mệt vì hơi thở ra [quá dài hay quá ngắn] cả thân lẫn… (7) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến dấu hiệu, tâm của người ấy vẫn bị hơi thở vào dao động, cả thân lẫn… (8) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến hơi thở vào, tâm của người ấy vẫn bị dấu hiệu dao động, cả thân lẫn… (9) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến dấu hiện, tâm của người ấy vẫn bị hơi thở ra dao động, cả thân lẫn… (10) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến hơi thở ra, tâm của người ấy vẫn bị dấu hiệu dao động, cả thân lẫn… (11) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến hơi thở vào, tâm của người ấy vẫn bị hơi thở ra dao động, cả thân lẫn… (12) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến hơi thở ra, tâm của người ấy vẫn bị hơi thở vào dao động, cả thân lẫn… (13) Tâm chạy theo [hơi thở] quá khứ bị phân tâm thắng thế, cả thân lẫn… (14) Tâm bị dao động vì mong ngóng [hơi thở] tương lai, cả thân lẫn… (15) Tâm giải đãi bị lười biếng thắng thế, cả thân lẫn… (16) Nỗ lực quá sức, tâm bị dao động thắng thế cả thân lẫn… (17) Khi bị lôi cuốn, tâm bị tham công kích cả thân lẫn… (18) Khi chán ghét, tâm bị sân hận thắng thế cả thân lẫn tâm vị ấy không yên, bị xáo trộn và dao động.

13.

Người nào mà việc quán hơi thở
Không được tu tập, không toàn thiện,
Thấy xáo trộn trong thân
Tâm vị ấy cũng như thế,
Rồi vị ấy bị dao động trong thân
Trong tâm vị ấy cũng như thế.
Người nào mà việc quán hơi thở
Được tu tập, được toàn thiện,
Thì không xáo trộn trong thân
Tâm vị ấy cũng như thế,
Rồi vị ấy không bị dao động trong thân
Trong tâm vị ấy cũng như thế.

14. Khi tâm được lọc sạch những chướng ngại này [đề cập ở phần i.] hành giả tu tập định bằng quán hơi thở qua mười sáu cứ điểm, mười tám bất toàn này khởi lên trong vị ấy theo từng chập ngắn ngủi.

[ Phần III ]

15. Mười ba loại trí về giữ trong sạch là gì?

(1) Tâm chạy theo [hơi thở] quá khứ bị phân tán thắng thế: bằng cách tránh điều này vị tỳ kheo tập trung tâm vào một nơi, như vậy tâm không bị phân tán.

(2) Tâm mong ngóng [hơi thở] tương lai có thể bị lay động: [167] bằng cách tránh điều này vị tỳ kheo trấn tĩnh tâm vào một nơi, như thế tâm cũng không bị phân tán.

(3) Tâm giải đãi bị lười biếng thắng thế: bằng cách cố gắng làm, vị ấy từ bỏ lười biếng, như thế tâm cũng không bị phân tán.

(4) Nỗ lực quá sức, tâm bị dao động thắng thế: bằng cách chế ngự, vị ấy từ bỏ dao động, như thế tâm cũng không bị phân tán.

(5) Khi bị lôi cuốn, tâm bị tham thắng thế: bằng cách hiểu biết rõ ràng tường tận điều đó, vị tỳ kheo từ bỏ tham, như thế tâm cũng không bị phân tán.

(6) Khi chán ghét, tâm bị sân hận thắng thế: bằng cách hiểu biết rõ ràng tường tận điều đó, vị tỳ kheo từ bỏ sân hận, như thế tâm cũng không bị phân tán.

Tâm được trong sạch, sáng sủa và đạt được nhất điểm qua sáu khía cạnh này.

16. Những nhất điểm này là gì?

(7) nhất điểm dưới hình thức thiết lập ý muốn buông bỏ tặng phẩm [khi bố thí],

(8) nhất điểm dưới hình thức thiết lập biểu tượng của tĩnh lặng [trong khi định],

(9) nhất điểm dưới hình thức thiết lập đặc tính của diệt (vaya) [trong quán thực tánh],

(10) nhất điểm dưới hình thức thiết lập đoạn diệt [nirodha] [trong đạo lộ].

17. Nhất điểm dưới hình thức thiết lập ý muốn buông bỏ tặng phẩm của người nhất quyết từ bỏ. Nhất điểm dưới hình thức thiết lập biểu tượng của tĩnh lặng của người dồn hết cho Tâm Tăng Thượng. Nhất điểm dưới hình thức thiết lập đặc tính của diệt của người thực hành quán thực tánh. Nhất điểm dưới hình thức thiết lập đoạn diệt vốn của các bậc Thánh.

18. Trong bốn trường hợp đạt được nhất điểm này, tâm

(11) đi vào tiến trình thanh lọc của đạo lộ [7]

(12) được bình thản tăng cường,

(13) được trí thoả mãn.

19. Đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối của sơ thiền là gì?

Tiến trình thanh lọc của đạo lộ là đoạn đầu, tăng cường bình thản là đoạn giữa và thỏa mãn* là đoạn cuối của sơ thiền.

* ở đây, tuy dùng chữ encouragement (khích lệ), nhưng ở Vism IV đ. 113, tỳ kheo Ñāamoli đã sửa thành satisfaction (thỏa mãn). Vì thế, tôi chọn chữ satisfaction để dịch cho phù hợp với thay đổi này và để thống nhất với sự thỏa mãn vừa mới nói ở đ. 18 (13). Đoạn 22 sắp tới đây nói đến đặc tính này ở đoạn cuối của sơ thiền.

20. Tiến trình thanh lọc của đạo lộ là đoạn đầu của sơ thiền: đoạn đầu có mấy đặc tính?

Đoạn đầu có ba đặc tính:

i.         tâm được thanh lọc khỏi các trở ngại của [cõi thiền] đó;

ii.       vì được thanh lọc, nên tâm tiến đến đoạn giữa [trạng thái quân bình, vốn là] dấu hiệu của tĩnh lặng;

iii.      vì đã tiến đến, nên tâm đi vào trạng thái quân bình ấy.

Và vì tâm đã được lọc sạch các trở ngại của thiền, và bởi vì nó được thanh lọc, nên tâm tiến đến đoạn giữa [trạng thái quân bình, vốn là] dấu hiệu của tĩnh lặng, và vì đã tiến đến, nên tâm đi vào trạng thái quân bình ấy, [168] tiến trình thanh lọc của đạo lộ là đoạn đầu của sơ thiền. Đây là ba đặc tính của đoạn đầu. Vì thế nên nói rằng sơ thiền tốt đẹp ở đoạn đầu với [ba] đặc tính.

21. Tăng cường bình thản là đoạn giữa của sơ thiền: đoạn giữa có mấy đặc tính?

Đoạn giữa có ba đặc tính: người tỳ kheo

iv.     vô can nhìn tâm đã được thanh lọc với lòng bình thản;

v.       vô can nhìn tâm đã tiến đến tĩnh lặng với lòng bình thản;

vi.     vô can nhìn sự thiết lập nhất điểm với lòng bình thản.

Và vì tỳ kheo [bây giờ] vô can nhìn tâm đã được thanh lọc với lòng bình thản và vô can nhìn tâm đã tiến đến tĩnh lặng với lòng bình thản và vô can nhìn sự thiết lập nhất điểm với lòng bình thản, sự tăng cường bình thản đó là đoạn giữa của sơ thiền. Đây là ba đặc tính của đoạn giữa. Vì thế nên nói rằng sơ thiền tốt đẹp ở đoạn giữa vốn có [ba] đặc tính.

22. Thỏa mãn là đoạn cuối của sơ thiền: đoạn cuối có bao nhiêu đặc tính?

Đoạn cuối có bốn đặc tính:

vii.    thỏa mãn theo nghĩa không có sự vượt quá giữa các trạng thái khởi lên trong đó;

viii.  thỏa mãn theo nghĩa các năng lực gây ảnh hưởng có tác dụng (hương vị) duy nhất;

ix.     thỏa mãn theo nghĩa nỗ lực thích đáng có hiệu quả;

x.       thỏa mãn theo nghĩa lập lại;

là thỏa mãn ở đoạn cuối của sơ thiền. Đây là bốn đặc tính của đoạn cuối. Vì thế nên nói rằng sơ thiền tốt đẹp ở đoạn cuối vốn có [bốn] đặc tính.

23. Tâm đã đạt tới chu kỳ ba đoạn [đầu, giữa và cuối] và tốt đẹp theo ba thể thức đó và có 10 đặc tính như thế cũng có luôn [năm yếu tố của cõi thiền] là hướng tâm về đối tượng, suy xét đối tượng, hỉ, lạc và cương quyết cũng như [năm năng lực gây ảnh hưởng và năm lực] tín tấn niệm định và tuệ.

24. Đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối của nhị thiền là gì?

Tiến trình thanh lọc của đạo lộ là đoạn đầu của nhị thiền, tăng cường bình thản là đoạn giữa và thỏa mãn là đoạn cuối.

25-28. Tiến trình thanh lọc của đạo lộ là đoạn đầu của nhị thiền: đoạn đầu có mấy đặc tính?

Đoạn đầu có ba… [lập lại các đoạn từ 20 đến 23, thay chữ sơ thiền bằng chữ nhị thiền] [169]

29-33. Đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối của tam thiền là gì? … [lập lại các đoạn từ 19 đến 23]

34-38. Đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối của tứ thiền là gì? …

39-58. … [lập lại cũng cùng năm đoạn như thế với mỗi phần của 4 chứng đắc cõi vô sắc] …

59-148. … [lập lại cũng cùng năm đoạn như thế với mỗi phần của 18  Tuệ Quán Thực Tánh Chính] …

149-168. … [lập lại cũng cùng năm đoạn như thế với mỗi phần của 4 đạo lộ] … [170]

[Tỷ dụ Lưỡi Cưa]

169.

Dấu hiệu, thở vào, thở ra không phải là đối tượng
của một tâm duy nhất;
Người không biết ba điều này
Tu không tăng tiến. [171]
Dấu hiệu, thở vào, thở ra không phải là đối tượng
của một tâm duy nhất;
Người biết rõ ba điều này
Tu có thể tăng tiến.

170. Thế nào là nói ba điều này không phải là đối tượng của một tâm duy nhất?, tuy chúng không phải là không được biết tới?, tâm không bị phân tán, vị tỳ kheo thể hiện nỗ lực, làm phận sự và đạt kết quả đặc biệt?

Giả thử có một thân cây đặt nằm trên mặt đất bằng, một người dùng cưa cắt nó. Quán niệm của người ấy được thiết lập nhờ chỗ các răng cưa tiếp xúc với thân cây mà không chú ý tới sự di chuyển tới lui của các răng cưa ấy, cho dù các răng cưa ấy không phải là không được người cưa biết tới khi các răng ấy di chuyển tới lui; và người cưa thể hiện nỗ lực, làm phận sự và đạt kết quả đặc biệt.

Khi thân cây ấy được đặt nằm trên mặt đất bằng thì dấu hiệu buộc quán niệm [8] cũng thế. Các răng cưa như thế nào, các hơi thở vào và hơi thở ra cũng thế. Vì quán niệm của người được thiết lập nhờ chỗ các răng cưa tiếp xúc với thân cây mà không chú ý tới sự di chuyển tới lui của các răng cưa ấy, cho dù các răng cưa ấy không phải là không được người cưa biết tới khi các răng cưa ấy di chuyển tới lui; và như vậy người cưa thể hiện nỗ lực, làm phận sự và đạt kết quả đặc biệt, cũng thế, vị tỳ kheo ngồi, sau khi lập quán niệm ở đỉnh mũi hay môi trên xong, không chú ý tới sự di chuyển vào ra của các hơi thở vào và hơi thở ra, cho dù các hơi thở ấy không phải là không được tỳ kheo biết tới khi các hơi thở vào ra; và như vậy vị ấy thể hiện nỗ lực, làm phận sự và đạt kết quả đặc biệt.

Nỗ lực là gì? Thân và tâm của người tinh tấn trở nên dễ điều khiển: đây là nỗ lực.

Phận sự là gì? Các bất toàn cần được từ bỏ nơi người tinh tấn, và các tâm hướng về đối tượng của vị ấy đã được êm dịu: đây là phận sự.

Kết quả đặc biệt là gì? Ở người tinh tấn, các kết buộc đi tới tình trạng bị từ bỏ, và các khuynh hướng ngủ ngầm của người ấy đi tới tình trạng bị diệt trừ: đây là kết quả đặc biệt.

Như vậy, ba điều này không phải là đối tượng của một tâm duy nhất, [172] tuy chúng không phải là không được biết tới, tâm không bị phân tán, và vị ấy thể hiện nỗ lực, làm phận sự và đạt kết quả đặc biệt.

171.

Quán niệm hơi thở vào và
hơi thở ra của người nào
được hoàn hảo, khéo tu tập,
Và mang dần tới tăng trưởng
Theo đúng như lời Phật dạy,
Người đó soi sáng thế giới này
Giống như trăng tròn không mây.[9]

172. Thở vào (āna) là hơi thở đi vào (assāsa); thở ra (apāna) là hơi thở đi ra (passāsa)*.[10] Thiết lập (nền tảng) nhờ hơi thở vào là niệm; thiết lập (nền tảng) nhờ hơi thở ra là niệm. Khi thở vào niệm được thiết lập (đặt nền tảng) trong vị ấy; khi thở ra niệm được thiết lập (đặt nền tảng) trong vị ấy.

* ở Vism VIII đ. 164 viết là: assāsa là hơi gió đi ra; passāsa là hơi gió đi vào như đã nói theo chú giải của tạng Luật.

173. Hoàn hảo: hoàn hảo theo nghĩa phân biệt rõ* [cõi thiền, tuệ quán và đạo lộ]; hoàn hảo theo nghĩa [các trạng thái liên kết sau đó] trang bị [lẫn cho nhau]; hoàn hảo theo nghĩa tuyệt hảo.

pariggaha. Xin đọc lại chú thích về chữ này ở Luận I đ. 23.

174. Khéo tu tập: Có bốn loại tu tập:

i.         tu tập theo nghĩa không có sự vượt quá giữa các trạng thái khởi lên trong đó; (Luận I 135)

ii.       tu tập theo nghĩa tác dụng (hương vị) duy nhất của các năng lực gây ảnh hưởng (Luận I 134)

iii.      tu tập theo nghĩa hiệu quả vì nỗ lực thích đáng;

iv.     tu tập theo nghĩa lập lại;

Bốn loại tu tập này đã được thuần thục, tạo thành nền tảng, được củng cố, được điêu luyện và đem lại đồng nhất thể.*

* Câu: ‘đã được thuần thục… đồng nhất thể’ tìm thấy ở D ii 103; S ii 274 ff. Có lẽ vì phần so sánh giữa sama và susama ở đoạn sắp tới nên bhikkhu Ñāamoli dịch susamāraddhā là brought to very sameness: ‘đem lại đồng nhất thể’. Maurice Walshe dịch chữ này là properly undertaken (LDB trang 246); Bhikkhu Bodhi dịch là fully perfect it (CDB I trang 707-8).

‘Được thuần thục’: Ở bất cứ nơi nào, nếu muốn, vị ấy làm chủ, có quyền lực và hoàn toàn tự tin,* các trạng thái [tĩnh lặng và quán thực tánh] sẵn sàng để vị ấy hướng tới, sẵn sàng để vị ấy sử dụng theo ý muốn, sẵn sàng để vị ấy chú tâm suy xét, sẵn sàng để vị ấy khởi tâm. ‘Được thuần thục’ được nói vì lý do đó.

*vesārajja: hoàn toàn tự tin

‘Tạo thành nền tảng’: quán niệm của vị ấy được thiết lập vững vàng (vững đặt) trên bất cứ nền tảng nào tâm của vị ấy trụ vào. Tâm của vị ấy trụ vào bất cứ nền tảng nào nơi quán niệm của vị ấy được thiết lập vững vàng (vững đặt). ‘Tạo thành nền tảng’ được nói vì lý do đó.

‘Củng cố’, quán niệm của vị ấy luân chuyển song hành với bất cứ cái gì vị ấy điều tâm tới. Vị ấy điều tâm tới bất cứ cái gì quán niệm của vị ấy luân chuyển song hành với. ‘Củng cố’ được nói vì lý do đó.

‘Được điêu luyện’: được điêu luyện theo nghĩa giữ vững, được điêu luyện theo nghĩa trang bị, được điêu luyện theo nghĩa hoàn hảo. Khi tỳ kheo gìn giữ quán niệm, vị ấy chế ngự được các trạng thái xấu xa, bất thiện. ‘Được điêu luyện’ được nói vì lý do đó.

‘Đem lại đồng nhất thể’ (susamāraddhā): Có bốn loại ‘đem lại nhất thể’: đem lại đồng nhất thể theo nghĩa không có sự vượt quá giữa các trạng thái khởi lên; đem lại đồng nhất thể theo nghĩa tác dụng (hương vị) duy nhất của các năng lực gây ảnh hưởng; đem lại đồng nhất thể theo nghĩa hiệu quả vì nỗ lực thích đáng; đem lại đồng nhất thể vì chính đáng hủy bỏ (susamugghātattā)* nhiễm lậu vốn đối nghịch với trạng thái này.

* Bản của VRI viết là susamūhatattā.

‘Đồng nhất thể’ (susama): [11] Có nhất thể (sama) và đồng nhất thể (susama). Nhất thể là gì? Các trạng thái nào khởi lên vốn không lỗi và mang đặc tính giác ngộ: đây là nhất thể. ‘Đồng nhất thể’ là gì? Đối tượng cho những trạng thái như đoạn diệt, nibbana: đây là ‘đồng nhất thể’. Nhất thể này và đồng nhất thể này được biết đến, thấy rõ, nhận ra, được thực chứng, được thể nghiệm với tuệ; nỗ lực không mệt mỏi được mang lại để toàn thiện (āraddha), quán niệm đã được thiết lập (đặt nền tảng) không suy giảm, thân được an tịnh, mát lạnh (asāraddha),* tâm định nhất điểm. ‘Đem lại đồng nhất thể’ (susamāraddhā) được nói vì lý do đó.

* dịch sát: không cuồng nhiệt. Đọc Peter Masefield, The Itivuttaka, PTS [Oxford, 2000], trang 110.

175. Mang dần tới tăng trưởng: tăng trưởng chuẩn bị từ trước và sau đó mang đến tăng trưởng nhờ hơi thở vào dài, tăng trưởng chuẩn bị từ trước và sau đó mang lại tăng trưởng nhờ hơi thở ra dài, … [và cứ thế với 32 thể thức, đọc đ. 183 dưới đây, cho đến] … tăng trưởng chuẩn bị từ trước và sau đó mang đến tăng trưởng nhờ hơi thở ra dài quán từ bỏ. Tất cả các loại niệm hơi thở với 16 cứ điểm cũng được chuẩn bị cho tăng trưởng và mang tới tăng trưởng phụ thuộc vào nhau. ‘Mang dần tới tăng trưởng’ được nói vì lý do đó.

176. Theo đúng như: ‘Theo đúng như’ có mười nghĩa, đó là, nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của tự chủ, nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của an tịnh trong tâm, … là nghĩa của hoàn toàn dập tắt phiền não trong tâm, là nghĩa của trí trực chứng, … là nghĩa của hiểu biết trọn vẹn, … là nghĩa của từ bỏ, … là nghĩa của tu tập, … [174] là nghĩa của thực chứng, … là nghĩa của chứng ngộ đồng thời, … nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của củng cố đoạn tận.

177. Buddha (Bậc Giác Ngộ): là Thế Tôn, là bậc tự trông cậy vào  chính mình*, không thầy chỉ dạy về những tri kiến chưa từng nghe từ trước,[12] người tự khám phá (abhisambujjhati) ra chân lý, đạt toàn giác trong tứ đế, các lực và làm chủ.

sayambhū: tự trông cậy vào chính mình, không mong mỏi ở ai khác. Đây là phẩm tính của một vị Phật (Đọc PED trang 697; đọc R. C Childers, A Dictionary of the Pali Language, [Cosmo Publications, New Delhi, 1979] trang 471). Sayambhunā, bậc tự thông hiểu Đạo Pháp, không học từ ai khác. Đọc T. W. Rhys Davids, F. Max Müller hiệu đính, The Questions of Milinda, Vol. II, [Low Price Publications, Delhi, 1996] chú thích 6, trang 6.

Buddha: Buddha theo nghĩa nào? Ngài là người khám phá (bujjhitar) ra chân lý, do đó ngài là bậc giác ngộ (buddha). Ngài là người đánh thức (bodhetar) cuộc đời này, do đó ngài là bậc giác ngộ. Ngài được giác ngộ nhờ hiểu biết toàn triệt, giác ngộ nhờ thấy biết tất cả, giác ngộ không dựa vào chỉ dẫn của một ai, giác ngộ vì uy lực,[13] ngài được giác ngộ bằng phẩm hạnh diệt xong nhiễm lậu, được giác ngộ bằng phẩm hạnh giải thoát khỏi các đặc tính tất yếu của hiện hữu.* Ngài hoàn toàn không còn tham, do đó ngài là bậc giác ngộ; Ngài hoàn toàn không còn sân, do đó ngài là bậc giác ngộ; Ngài hoàn toàn không còn si, do đó ngài là bậc giác ngộ; Ngài hoàn toàn không còn ô nhiễm, do đó ngài là bậc giác ngộ; Ngài đã đi trên đạo lộ giải thoát chỉ có một chiều, do đó ngài là bậc giác ngộ; Ngài một mình khám phá ra giác ngộ toàn triệt vô thượng, do đó ngài là bậc giác ngộ. Ngài là bậc giác ngộ vì đã hủy diệt vô minh và chứng đạt giác ngộ.

Nirupadhi: giải thoát khỏi các đặc tính tất yếu của hiện hữu, những gì tất yếu của hiện hữu theo nghĩa rộng nhất của nó (nghĩa hẹp: không còn luyến ái). Đọc ÑāamoliThe Guide, PTS [Oxford, 1977], chú thích 164/12, trang 49. Xin đọc Luận I đ. 18 liệt kê 15 đặc tính căn bản tất yếu của hiện hữu này.

Buddha: đây không phải là tên do mẹ đặt ra, do cha đặt ra, do anh đặt ra, do chị đặt ra, do bạn hữu và những người đồng hành đặt ra, do bà con và thân quyến đặt ra, do sa môn và brahmans đặt ra, do chư thiên đặt ra: đây là danh hiệu (lấy) từ sự giải thoát cuối cùng của các bậc Giác Ngộ, các bậc Thế Tôn, cùng với sự chứng đạt trí toàn giác ở cội cây Giác Ngộ, danh hiệu ‘bậc Giác Ngộ (Buddha)’ là một (ý niệm) diễn bày dựa trên chứng ngộ.

178. Đã dạy: Theo đúng như đức Phật đã dạy, nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của tự chủ, nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của an tịnh trong tâm, … [và cứ thế như ở đ 176 cho đến] nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của củng cố đoạn tận.

179. Người đó: người đó là cư sĩ hay đã xuất gia, sống không gia đình.

180. Thế giới: thế giới tập hợp, … [lập lại Luận I đ 580 cho đến] Mười tám thế giới: Mười tám yếu tố.

181. Soi sáng: Sau khi đã tìm ra nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của tự chủ, [175] vị ấy là ngôi sao soi sáng, chiếu sáng thế giới này. Sau khi đã tìm ra nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của an tịnh trong tâm,… [và cứ thế như ở đ 176 cho đến]… Sau khi đã tìm ra nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của củng cố đoạn diệt, vị ấy là ngôi sao soi sáng, chiếu sáng thế giới này.

182. Giống như trăng tròn không mây: Các ô nhiễm giống như đám mây, trí của bậc thánh giống như mặt trăng. Người tỳ kheo giống như con của phạm thiên làm chủ trăng tròn. Khi không có mây, không có sương mù, không có khói bụi do quyền lực của Thần Nguyệt Thực Rāhu phát ra, mặt trăng rọi sáng, chói sáng và sáng ngời, người tỳ kheo khi được giải thoát khỏi ô nhiễm cũng rọi sáng, chói sáng và sáng ngời như thế. ‘Giống như trăng tròn không mây’ được nói vì lý do đó.

Đây là mười ba loại trí thanh tẩy.

Nguồn trích từ:

Đạo Vô Ngại Giải
Paisambhidāmagga

Bhikkhu Ñāṇamoli dịch từ tiếng Pāḷi sang tiếng Anh:
THE PATH OF DISCRIMINATION

Nguyễn Văn Ngân dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt
2006

Cùng chuyên mục

Tìm hiểu về các tầng Thiền

Tìm hiểu về các tầng Thiền

Tìm hiểu về các tầng Thiền Các tầng Thiền khi đã được phát triển đầy đủ thì trở thành rất sâu và vững chắc đó là giai đoạn An chỉ...

Tứ Niệm Xứ - 4 nền tảng của chánh niệm

Tứ Niệm Xứ – 4 nền tảng của chánh niệm

Tứ Niệm Xứ - 4 nền tảng của chánh niệm Tỳ Khưu Brahmavamso Giới thiệu: Ðại đức Brahmavamso là vị lãnh đạo tinh thần của hội Phật Giáo Tây Úc, và...

Hỏi-Đáp về lợi ích của Định (samatha)

Hỏi-Đáp về lợi ích của Định (samatha)

HỎI ĐÁP 5 Hỏi 5.1: Tám thiền chứng (samā patti) [21] có thể dùng làm phương tiện để đạt đến Danh Sắc Phân Tích Trí (nāma-rūpa pariccheda ñāṇa), và để thấy ra sự...

cach-niem-hoi-tho-anapanasati

Cách niệm hơi thở (Anapanasati)

Cách niệm hơi thở (Anapanasati) Bài thuyết pháp tối 15 tháng 9 năm 2008 của Thày Dhammapala.Tại Thiền Viện NGUYÊN THỦY Khóa thiền từ ngày 14 tháng 9 năm 2008...

Ẩn